"Có một lần, 2011 hoặc 2012, lúc đó Việt Nam là chủ tịch các nước ASEAN, chúng tôi cùng cùng Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền. làm báo cáo nhân quyền dưới chủ tịch nước Việt Nam. Mình nghĩ là ASEAN, thì thay vì mình công bố tại một đất nước tây phương thì mình công bố ở một nước ASEAN, mình quyết định công bố phúc trình ở Băng Cốc, trong câu lạc bộ ký giả quốc tế ở Băng Cốc (Foreign Correspondents' Club of Thailand). Anh Ái vẫn là tị nạn chính trị nên cần visa của Thái Lan. Thái Lan cho visa nhưng mà giờ chót họ bỏ visa và họ nói ông không đi được. Hỏi tại sao thì họ không nói. Tôi là người Anh, tôi không cần visa để đi Băng Cốc, thành ra nên tôi cáng đáng sẽ đi ra mắt phúc trình cùng Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền. Tôi là người Anh, tôi có chiếu kháng passport của nữ hoàng nước Anh cho đàng hoàng. Tôi ra phi trường Paris, tôi lên máy bay thì hãng máy bay hỏi: Có phải là cô Faulkner? “Đúng, đúng, đúng”. Họ nói xin lỗi, cô không thể lên máy bay được. “Ủa, tại sao vậy?”. Hãng Thái Lan, họ nói rằng hình như cô làm nhân quyền phải không. Tôi có chứ. Theo tôi thì nhân quyền thì đâu phải là một cái tội. Tại sao? Có vấn đề gì? Bộ Ngoại Giao Việt Nam cho biết rằng nếu mà cô lên máy bay này thì chúng tôi không thể đáp xuống ở Băng Cốc được. Thành ra đối với tôi là một ghê gớm ở chỗ, tôi không phải ở tù, nhưng mà Hà Nội có tay dài tới nỗi có thể cấm một người không phải quốc tịch Việt Nam, không đi Việt Nam, tôi đi Thái Lan, tôi không đi Việt Nam đâu… Và họ có thể cấm được. Thành ra tôi biết, người Việt Nam hoạt động xã hội dân sự tại Việt Nam họ rất là can đảm. Bởi vì họ có một thái độ như vậy, họ sẽ ở tù. Có một cái nữa phải rằng báo chí, đài BCC, các nước họ không nhắc cái chuyện đó. Tôi thấy chuyện Hà Nội cấm một người như vậy là cái chuyện nặng nề chứ không phải là chuyện dễ đâu. Thành ra vì vậy, tôi thấy là đi đâu Hà Nội họ cũng cho chúng tôi là kẻ thù. Nhưng mà tôi tiếc ở chỗ tôi không xem Hà Nội như kẻ thù. Nhưng mà họ xem mình là kẻ thù tức là công việc mình làm thành công một phần. Nếu không họ sẽ xem nhẹ và họ không để ý gì hết á."
"Có một chiến dịch khá quan trọng là lúc 1985, là 10 năm Hà Nội ăn mừng giải phóng miền Nam, họ ăn mừng lớn lắm. Lúc đó, Quê Mẹ và Ủy Ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam quyết định phải nói về tình trạng vi phạm nhân quyền rất là trầm trọng, đặc biệt với nước Mỹ. Có quy chế Liên Hợp Quốc bằng vụ kiện, xã hội dân sự có thể nộp đơn chứng minh tình trạng quyền tự do ngôn luận, tôn giáo, vân vân, bị vi phạm ở Việt Nam. Mình làm hồ sơ 500 trang toàn những chuyện tôn giáo, bắt bớ văn nghệ sĩ, cho danh sách những người bị bắt bớ, vẽ bản đồ các trại cải tạo ở Việt Nam mà có 800.000 người bị giam. Lúc đó chúng tôi nộp đơn kiện cho văn phòng nhân quyền của Liên Hợp Quốc ở New York. Lúc đó Quê Mẹ qua New York để kiện Hà Nội. Lúc đó Wall Street Journal, báo chí, quốc hội Hoa Kỳ chú ý về vụ kiện. Anh Võ Văn Ái cũng có một trang trên báo. Lúc đó Hà Nội tức lắm vì đang ăn mừng. Mình hợp báo ở Freedom House, cũng nổi tiếng ở New York, mình có nhân chứng từ miền Bắc nói về chế độ nhà tù ở Bắc Việt, một người bác dĩ miền Nam Việt Nam nói về đời sống ở miền Nam. Chuyện kiện Hà Nội ở New York cũng đánh động thế giới. Lúc đó mình cảm thấy ngôn ngữ nhân quyền và sử dụng thể chế nhân quyền quan trọng. Lúc đó người Việt tại Mỹ muốn kháng chiến, phục quốc ngày kia, đánh đổ cộng sản bằng vũ lực nhưng mình rằng đất nước đã đau khổ, thế giới không ủng hộ rồi thì thực ra mình thấy nhân quyền quan trọng hơn. Họ nói mình kiện lên Liên Hợp Quốc như vậy là “con kiến mà kiện củ khoai”. Thì cũng được, kiện củ khoai còn hơn là giết chết người ta trong chiến tranh thứ hai nữa. Đó là ý thức nhân quyền của thời đó."
"Có một hôm, 1978, tôi nhớ là ngồi với một số người Pháp, phần lớn là khuynh tả hết. Những người họ cũng ủng hộ hòa bình cho Việt Nam họ cũng có ủng hộ cộng sản nữa, nhưng mà họ bắt đầu thấy. Thì mình giải thích cho họ. Vì sao? Bởi vì họ nói ủa Việt Nam hòa bình rồi tại sao mà người ta bỏ nước ra đi như vậy mà người ta chết trên biển. Lúc có con tàu tên Hải Hùng là một con tàu rất lớn mà người ta trả tiền để mà lên, để mà thoát nước, mà con tàu lại bị chìm, rất nhiều người chết. Mình đang nói chuyện với những người bạn Pháp, nhà trí thức Pháp, thì có ông tên là André Glucksmann. Ông nói như vậy mình phải làm gì cho Việt Nam, phải làm gì bây giờ? Nói chuyện với nhau thì có người muốn biểu tình, đặt lá cờ trên nóc nhà của đại sứ Việt Nam ở Paris. Cái đó không có giúp người Việt trong nước gì hết. Thì bàn đi, nghĩ lại thì quyết định góp tiền để làm một con tàu để vớt những người họ bỏ nước ra đi. Mình làm một con tàu lớn để cứu họ để đem họ vào đất lành và từ từ giúp cho họ đi nước này nước nọ để định hướng. Chính cái đó, là tháng 11 năm 1978 thì quyết định như vậy. Thì có một số người Pháp, trong đó có ông triết gia rất nổi tiếng Jean-Paul Sartre, một người rất ủng hộ Hà Nội trước đó, ông đến với ủy ban con tàu. Ông nói là bây giờ phải cứu người, bây giờ người ta chết trên biển, vấn đề cứu người là bổn phận. Ông Jean-Paul Sartre là tên tuổi rất lớn. Ủy ban ra đời làm Île de Lumière, tức là… Nó sinh ra từ một sáng kiến của một số người nhỏ như vậy và trở thành một cái gì rất lớn. Trụ sở Quê Mẹ Gennevilliers trở thành trung tâm, địa chỉ trung tâm của con tàu là ở đó. Lúc đó rất là hay bởi tất cả các người bạn Pháp, họ là người tri thức, viết văn, nổi tiếng, họ quen biết giới báo chí ở Paris hết thì họ thuyết phục tất cả các tờ báo lớn ở Paris họ đăng một quảng cáo để xin tiền làm con tàu. Họ in trong tờ báo không có lấy tiền gì hết. Thành ra nhờ đó, rất nhiều tiền vô, người Pháp họ cho tiền rất là nhiều để cứu người Việt Nam."
"Rất khó vì các nước sau 1975 không muốn nhắc tới hai chữ “Việt Nam”. Mỹ bỏ miền Nam trong hoàn cảnh như vậy thì hiệp ước hòa bình không bảo vệ được ai hết. Rất nhiều người Âu Châu có cảm tình với Bắc Việt, phía Cộng Sản. Rất khó khăn để có được tin tức từ bên trong như trại cải tạo, đàn áp, bao nhiêu chuyện. Rất may thời đó Paris (1975-1977), lúc đó Paris là trung tâm của các phong trào ly khai (Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, etc.). Có nhiều người rất nổi tiếng, Vladimir Bukovski, Natalya Gorbanevskaya, các nước họ hiểu về Cộng Sản Việt Nam nên họ trở thành bạn của mình. Nhà in trở thành nhà in của tất cả các phong trào ly khai của các nước Đông Âu ở Paris vì chúng tôi chỉ tính phí rẻ thôi, trả tiền giấy, tiền in thôi, không làm tiền. Khi Gorbachev tới Paris, chúng tôi in cho tất cả các nước như Tiệp Khắc, Ba Lan. Khi in như vậy, mình giúp họ in về chuyện tranh đấu. Khi họp báo về Việt Nam, không ai tới hết. Nhưng do có rất nhiều người nổi tiếng Ba Lan, Liên Xô này kia đến như nhà toán học Leonid Plyush người Ukraine. Họ đến họp báo với mình. Nhờ sự có mặt của họ nên may ra có sự chú ý tới Việt Nam. Hoạt động đó là những năm sau 1975 thì nhờ phong trào ly khai họ giúp mình rất là nhiều."
"Mà tôi thấy người Việt họ hay tin chuyện vô hình, có duyên may, hay là có duyên, hay là số phận sắp đặt hay sao đó. Thì thật ra sau đó tôi cũng phải tin như vậy là bởi vì có nhiều lý do tối đó tôi không nên đi nghe ông Võ Văn ÁI thuyết trình. Bởi vì sáng mai tôi phải đi thi. Mẹ nói phải ngủ sớm, không được đi lang thang ngoài đường đi nghe thuyết trình. Nhưng mà không biết vì sao tôi quyết tâm đi nghe. Và thường thường đi nghe ai thuyết trình thì mình nghe rồi mình đi về nhưng anh Ái thuyết trình xong tôi thấy hay quá, tôi đến tôi hỏi: “Như vậy tôi muốn về Việt Nam thì nên làm cái gì?” mà ông nói “Cô mà về Việt Nam, cô không biết gì về Việt Nam, thì thật ra cô có về Việt Nam thì cũng không có thay đổi thế giới đâu”. Nhưng mà anh nói là có cái văn phòng ở Pháp thì nếu mà muốn thì có thể tình nguyện làm việc không tiền lương trong vòng một năm để làm thư ký. Ở bên Anh hay có cái chuyện sau trung học, trước khi vào đại học, thì mình làm việc một năm ở chỗ khác. Thì tôi hẹn với ông Ái là tôi sẽ qua Pháp một năm để làm việc trong cơ sở, để làm thư ký. Mà công nhận ông Võ Văn ÁI là một người rất dễ thương là vì khi tôi tới đó là câu hỏi đầu tiên của anh Ái là “Cô có biết đánh máy chứ hả”. Tôi không biết đánh máy, không biết đánh máy, không biết gì hết. Đúng là mình điếc không sợ súng vì mình làm thư ký mà không biết đánh máy. Nhưng mà anh Ái rất là kiên nhẫn, thành ra là dần dà tôi cũng giúp được một năm. Nhưng mà như nói hồi đầu, lúc đó chưa có cơ sở Quê Mẹ, lúc đó sau một năm tôi quyết định là tôi không muốn về.
Cái khổ là đối với cha mẹ thì cha mẹ thích mình con gái mình phải bác sĩ, kỹ sư hay là cái gì mà có tương lai, có tiền lương. Ở Paris thì làm việc cho Việt Nam nhưng mà tương lai không biết ra sao. May là lúc đó tôi có học bổng học ở bên Anh. Tôi thuyết phục hội đồng thành phố để chuyển học bổng bên Anh qua Paris ở Đại Học Sorbonne để tôi có thể học Master về tiếng Việt và văn chương Việt Nam. Đó là một âm mưu đối với cha mẹ là bởi vì để tôi muốn ở lại Pháp, tôi muốn làm việc cho người Việt. Như vậy thì cha mẹ vừa vui, và tôi cũng có thể tiếp tục làm công việc tôi muốn, là ở lại Paris."
Penelope Faulkner, tên tiếng Việt Nam là Ỷ Lan, là một nhà hoạt động nhân quyền người Anh sinh sống tại Pháp. Cô dành trọn cuộc đời đấu tranh cho tự do và dân chủ tại Việt Nam. Lớn lên ở cố đô York, cô chịu ảnh hưởng sâu sắc từ cha mẹ là những người có lý tưởng xã hội và dấn thân vì công lý. Sau khi gặp nhà hoạt động Võ Văn Ái tại thành phố York, vào năm 1970, cô sang Paris học ngôn ngữ và văn học Việt. Một năm sau, cô quyết định ở lại văn phòng của Võ Văn Ái, bắt đầu hành trình gắn bó suốt hơn nửa thế kỷ với Việt Nam tại Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam (1975) và tờ Quê Mẹ: Hành động cho Dân chủ Việt Nam (1976). Trong hành trình lan tỏa tiếng nói nhân quyền và bảo vệ văn hóa Việt Nam tại Ủy Ban và cơ sở Quê Mẹ, cô tham gia vào chiến dịch Ile de Lumière, con tàu Đảo Ánh Sáng cứu thuyền nhân Việt Nam trên biển (1978), vận động gửi phúc trình vi phạm nhân quyền tại Việt Nam tới Liên Hợp Quốc với tư cách thành viên của Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền (FIDH). Penelope Faulkner không ngừng lên tiếng cho tự do, dân chủ và tôn giáo ở Việt Nam. Dù là người ngoại quốc, cả một đời, cô không để bản thân mình trở thành một người chuyên môn Tây phương nói thay cho người Việt Nam mà thay vào đó, châm ngôn hoạt động của cô là nhằm giúp cho người Việt Nam có tiếng vang trên diễn đàn quốc tế.