Následující text není historickou studií. Jedná se o převyprávění pamětníkových životních osudů na základě jeho vzpomínek zaznamenaných v rozhovoru. Vyprávění zpracovali externí spolupracovníci Paměti národa. V některých případech jsou při zpracování medailonu využity materiály zpřístupněné Archivem bezpečnostních složek (ABS), Státními okresními archivy (SOA), Národním archivem (NA), či jinými institucemi. Užíváme je pouze jako doplněk pamětníkova svědectví. Citované strany svazků jsou uloženy v sekci Dodatečné materiály.
Pokud máte k textu připomínky nebo jej chcete doplnit, kontaktujte prosím šéfredaktora Paměti národa. (michal.smid@ustrcr.cz)
Tôi nghĩ rằng là nếu cho người Việt Nam một cơ hội thì chắc chắn là người Việt Nam họ hay hơn nhiều
Nguyễn Văn Khanh sinh tại Hà Nội vào ngày 15/6/1952. Sau đó, ông cùng gia đình di cư vào Nam để tránh cộng sản.
Gia đình ông rời Việt Nam đêm 29/4/1975 trên một con tàu của hải quân Việt Nam Cộng hòa trước khi Sài Gòn thất thủ.
Vào giai đoạn 1978–1979, ông bắt đầu vận động cho người vượt biên từ miền Nam, kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ và các nước khác tiếp nhận họ.
Năm 1997, ông gia nhập Đài Á châu Tự do (RFA) và trở thành một trong những thành viên sáng lập ban Việt ngữ của đài này.
Năm 2018, ông nghỉ hưu và nhận lời giúp VOICE tìm kiếm, đào tạo đội ngũ lãnh đạo mới; cùng năm đó ông bị đột quỵ nhẹ.
Từ năm 2020, ông thường xuyên cộng tác với các cơ quan truyền thông Việt ngữ tại Hoa Kỳ như SBTN và Người Việt.
Nguyễn Văn Khanh sinh ngày 15 tháng 6 năm 1952 tại Hà Nội trong một gia đình Công giáo. Năm 1954, gia đình ông di cư vào Nam và sống ở Nha Trang cho đến khi ông mười tuổi. Sau đó cả nhà ông vào Sài Gòn cho đến khi di tản khỏi Việt Nam vào tháng 4/1975.
Ông theo học tại Đại học Văn khoa Sài Gòn, nhưng sau đó chuyển sang học trường sư phạm để tránh bị gọi nhập ngũ. Vì hâm mộ ca sỹ Hương Lan, ông quyết định bắt đầu sự nghiệp báo chí của mình với vai trò phóng viên kịch trường cho tờ báo độc lập Dân Quyền. Tuy nhiên, tổng biên tập của tờ báo lại giao cho ông phụ trách các mảng giáo dục, y tế và các vấn đề xã hội. Nhờ vậy, ông học được bài học đầu tiên về tinh thần báo chí độc lập. Ký ức đầu tiên của ông về sự tàn khốc của chiến tranh là “Mùa hè đỏ lửa” năm 1972, khi quân đội Việt Nam Cộng hòa kháng cự đòn tấn công của quân đội miền Bắc. Trong một chuyến thăm cha ở Huế, ông tận mắt chứng kiến cảnh thường dân chạy nạn từ Quảng Trị vào Huế dọc Quốc lộ 1 và họ bị pháo kích dữ dội từ phía Bắc. Đoạn đường đó sau này được gọi là “Đại lộ Kinh hoàng.”
Ngày 29/4/1975, chỉ một ngày trước khi Sài Gòn thất thủ, gia đình ông rời khỏi Sài Gòn trên tàu hải quân của Việt Nam Cộng hòa. Cha ông thuộc binh chủng nhảy dù trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, và gia đình lo sợ rằng nếu bị bắt, ông sẽ bị đưa vào trại cải tạo. Họ lên tàu tại Bến Bạch Đằng, hướng đến vịnh Subic (Philippines). Sau chuyến hải trình đầy sóng gió, gia đình ông chuyển sang tàu hàng để đến đảo Guam, nơi họ phải sống gần hai tháng trong trại tị nạn trên đảo. “Trại tị nạn nó là một cái trại lều. Họ dựng những cái bàn, những cái lều như là của quân đội và xếp ghế bố trong đó. Mỗi người một cái ghế bố. Ngủ ở trong đó thì họ nuôi ăn. Họ có có trạm y tế, rồi cuối tuần thì có chiếu xinê mấy lần. Và có những cái lớp dạy tiếng Anh. Tôi học những cái chữ tiếng Anh đầu thì thật sự là như thế này. Lúc mà học trung học thì sinh ngữ chính của tôi là Pháp văn và sinh ngữ phụ là Anh văn.”
Tháng 9 năm 1975, gia đình ông rời Guam và được định cư tại một trại tị nạn trên đất liền ở bang California. Ông sống hai phần ba cuộc đời mình tại Hoa Kỳ.
Khi đến Hoa Kỳ, mẹ ông xin sự bảo trợ từ nhà thờ vì bà là người Công giáo. Vì gia đình đông con, có đến mười người tất cả, hai nhà thờ Công giáo đã nhận bảo trợ và chia gia đình thành hai nhóm, mỗi nhóm năm người, và sau đó họ chuyển đến Chicago. Tại đây, ông theo học lớp tiếng Anh buổi tối, học cách hòa nhập với cuộc sống ở Mỹ. Ông nhớ công việc đầu tiên của mình là tại Trường Trung học Saint Patrick, nơi ông được phân nhiệm vụ lau bàn, dọn rác và cọ nhà vệ sinh. Chính công việc ấy đã làm ông mong muốn trở thành giáo viên. Vào cuối tuần, ông làm thêm tại một nhà hàng Trung Hoa, mà ông chủ thường cho ông đồ ăn mang về.
Không lâu sau đó, ông nhận được học bổng toàn phần tại Đại học George Mason ở Washington D.C., một phần nhờ vào thân phận là người tị nạn. Trong thời gian sống ở Chicago, ông nhận thấy cộng đồng người Việt khi ấy còn rất nhỏ và thưa thớt, chỉ tụ tập vào dịp Giáng sinh và Tết Nguyên Đán. Thông tin về Việt Nam rất ít, còn quà gửi về nước phải chuyển gián tiếp qua Pháp. Mãi cho đến khi những thế hệ thuyền nhân tiếp theo bắt đầu đến Hoa Kỳ, thông tin mới bắt đầu phong phú hơn. Tại Washington D.C., ông cùng những sinh viên Việt Nam khác lập Hội Sinh viên Việt Nam để tương trợ nhau. Họ hỏi nhau: “Hồi đó ở trại nào?” và chia sẻ những câu chuyện về cướp biển, về những chuyến vượt biên sinh tử. Làn sóng thuyền nhân vượt biên lên cao trào vào những năm 1978–1979. Một số người bạn của ông còn tình nguyện tham gia các chuyến tàu nhân đạo đi cứu giúp người tị nạn trên biển. Ông tích cực tham gia các cuộc biểu tình kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ giúp đỡ người Việt tị nạn, giăng băng rôn, khẩu hiệu và lá cờ vàng ba sọc đỏ–quốc kỳ của Việt Nam Cộng hòa.
Chiến dịch thành công nhất chính là Chương trình H.O. (Humanitarian Operation), nhằm đưa các viên chức và quân nhân Việt Nam Cộng hòa từng bị giam giữ trong trại cải tạo cùng gia đình sang Hoa Kỳ định cư. Ông tham gia nhiều cuộc biểu tình tại Washington D.C. và New York, đôi lúc còn gặp gỡ đại diện của chính phủ Mỹ để gây sức ép, yêu cầu chính quyền Hà Nội thả tù nhân. Ông cũng nhận ra rằng phong trào đấu tranh của cộng đồng người Việt hải ngoại đã tiến triển từ chống cộng sản sang bảo vệ nạn nhân của bất công và tù nhân lương tâm. “Câu trả lời của tôi là cái đoàn kết. Nên nhớ rằng những cuộc vận động thì khởi đầu không có nhiều người, nhưng mà sau đó nó lan rộng. Lúc đầu, cuộc vận động chỉ ở một nơi nhưng mà sau đó lan rộng ra ở nhiều nơi khác. Thành ra tôi thấy quan trọng nhất là vấn đề đoàn kết.”
Sự nghiệp báo chí của ông ở Hoa Kỳ bắt đầu tại Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA), với mong muốn được nuôi sống chính mình bằng việc viết và nói tiếng Việt. Sau năm năm làm việc tại VOA, ông chuyển sang Đài Á châu Tự do (RFA), trở thành một trong sáu thành viên đầu tiên góp phần đặt nền móng xây dựng ban Việt ngữ. Là một nhà hoạt động và nhà báo, ông luôn nhắc nhở đồng nghiệp rằng cần phải tách bạch hai vai trò ấy một cách rạch ròi để giữ vững tính trung thực của nghề báo. Dưới thời ông giữ chức giám đốc, RFA đã đưa tin về việc có ảnh hưởng lớn, trong đó có tin Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từ chức. RFA còn cử phóng viên đến nhiều nước Đông Nam Á để tiếp cận các nhà hoạt động Việt Nam ở nước ngoài.
Dù có thâm niên trong nghề làm báo, ông đôi khi cũng cảm thấy hối tiếc: “Tôi cũng nhân tiện đây phải nói luôn một điều rằng là có những người nghe Đài Á châu Tự do mà bị bắt. Có những người trả lời đài phỏng vấn của Đài Á châu Tự do mà bị bắt. Có những người liên lạc với Đài Á châu Tự do rồi bị bắt. Một khi nghĩ đến thì tôi cũng đau xót, và dùng chữ ân hận thì nó cũng không sai.”
Vào năm 2017, sau khi ăn tối cùng người sáng lập VOICE, Trịnh Hội, ông đồng ý đảm nhiệm vai trò trưởng ban chuyển tiếp của tổ chức, tập trung vào việc trao quyền cho giới trẻ và xã hội dân sự Việt Nam. Dù sau đó bị tai biến nhẹ, ông tự hào rằng mình đã thành công trong việc tìm ra và huấn luyện thế hệ lãnh đạo mới của VOICE. “Tôi có một điều mừng là khi tôi tìm những người mà tôi tin sẽ làm việc cho VOICE thì tôi có nói một điều với họ. Tôi nói rất là rõ ràng rằng là tôi nghĩ đây là những người mà trong tương lai sẽ điều hành VOICE. Và sau đó thì y chang như vậy. Thành ra tôi hãnh diện về cái điều đó lắm.”
Ông định nghĩa một “Việt Nam đáng sống” là nơi người dân có quyền được cất lên tiếng nói, và chính quyền biết lắng nghe, tôn trọng tiếng nói ấy. Ông tin rằng nếu có cơ hội, người Việt Nam có thể làm được nhiều điều hay ho hơn, đóng góp nhiều hơn cho đất nước. “Một Việt Nam đáng sống là khi nào mà những người Việt Nam biết được vai trò của họ, biết được trách nhiệm, và họ được lên tiếng trình bày những ưu tư của họ với lại chính quyền. Việt Nam đáng sống là nơi mà chính quyền sau khi nghe được ưu tư của người dân, chính quyền thấy là họ có bổn phận phải làm như là người dân chúng ta. Thì tôi thấy đó là một Việt Nam đáng sống.”
------------------------------------------------------------------
Nguyen Van Khanh was born on June 15, 1952, in Hanoi, Vietnam. In 1954, his family migrated south, first to Nha Trang until he reached the age of 10, and then to Saigon, as refugees from communism. Khanh studied literature at a university in Saigon, but later switched to pedagogy at a teacher’s college to avoid military conscription. Hoping to meet a singer he admired, Hương Lan, Khanh decided to start his journalism career as a theater reporter for the independent newspaper Dân Quyền. The editor-in-chief at Dân Quyền, nonetheless, assigned him to cover topics including education, health, and social issues. That was when he learned his first lesson of independent journalism. Khanh’s first impression of the brutality of war was the “Inflaming Summer” of 1972, as the South Vietnamese army resisted North Vietnamese attacks, while visiting his father in Huế. He saw civilians fleeing from Quảng Trị to Huế on National Highway 1, being shelled by North Vietnamese forces. That stretch of road was later called the “Highway of Horror.”
On April 29, 1975, a day before the Communist takeover, his family evacuated from Saigon on a South Vietnamese naval vessel. His father was a high-ranking officer in the Army of the Republic of Vietnam, so the family feared if he were captured, he would be sent to a reeducation camp. They boarded a ship from Bạch Đằng Wharf, going to Subic Bay in the Philippines. After a tumultuous sea journey to Subic Bay, they transferred to a cargo ship to Guam, where Khanh and his family spent almost two months at a refugee camp there. “The refugee camp—it was a tent camp. They set up tables and tents like the army, and they laid out folding camp beds. Each person had one camp bed to sleep on. We slept there, and they provided food for us.” In September 1975, they left Guam and were resettled in a mainland refugee camp in California. He spent two-thirds of his life in the U.S.
Following their arrival in the U.S. mainland, Khanh’s mother, a Catholic herself, requested sponsorship from a Catholic church. Because his family was large (10 people), they were asked to split into two groups. Eventually, two Catholic churches sponsored two groups of five people each, and they moved to Chicago. In Chicago, he attended evening English classes and learned how to adapt to the American lifestyle. He remembers his first job at Saint Patrick High School, where he was assigned to clean desks, collect trash, and scrub toilets. This experience motivated him to strive to become a teacher. On weekends, he worked at a Chinese restaurant, where the owner often cooked food for him to take home.
He received a full scholarship to George Mason University in Washington D.C., partly thanks to his refugee background, and moved there to study. During his time in Chicago, he noticed that the Vietnamese community was small, mainly gathering for Christmas and Lunar New Year. Information about Vietnam was vague, and sending gifts back home had to be done through France. Later, when the wave of boat people arrived in the U.S., more information became available. In Washington D.C., he and other Vietnamese students formed a Vietnamese student association to help each other. He recalls that boat people often asked each other, “Which camp were you in?” and shared stories of pirate attacks. The wave of boat people intensified around 1978-1979. Some of his friends even joined humanitarian vessels to rescue boat people stranded at sea. He participated in campaigns requesting the U.S. government to help Vietnamese refugees, often protesting with slogans, banners, and the yellow flag with three red stripes—the national flag of the Republic of Vietnam.
The most successful campaign was the advocacy for the Humanitarian Operation (H.O.) Program, which brought South Vietnamese officials and military personnel who had been in reeducation camps and their families to the U.S. As part of the campaigning, Khanh participated in demonstrations in Washington D.C. and New York, which also drew demonstrators from other parts of the country. At times, the U.S. government asked the South Vietnamese community to meet with Hanoi‘s representatives in New York to demand the release of prisoners, which sparked suspicion of the refugees due to their strong anticommunist sentiment. He realized that the strategy of struggle of the community evolved over time, from anticommunism to advocating for victims of injustice and prisoners of conscience. “It’s about unity. Remember that these campaigns didn’t start with many people. But later, they spread. At first, the campaign was only in one place, but later it spread to many places. So I think the most important thing is unity.”
Khanh’s journalism career began with Voice of America (VOA) out of his desire to find a job in which he can make a living from writing and speaking Vietnamese. After working for VOA for five years, he transitioned to Radio Free Asia (RFA) Vietnamese language service at its nascent stage, becoming one of its initial six members who played a crucial role in its establishment. As an activist and a journalist, he often reminded his fellow workers to separate the two roles to maintain journalistic integrity.
During Khanh’s tenure, RFA broke several impactful stories. One of his team’s crucial breaking news is the resignation of then Prime Minister Nguyễn Tấn Dũng, who had cultivated a friendly relationship with the U.S. RFA also sent its journalists to offices in Southeast Asia, attempting to network with Vietnamese activists living in the country. He recalled the difficulty of gathering news from Vietnam in early days due to government censorship and repression. “There were people who listened to RFA and were arrested. There were people who answered RFA‘s interviews and were arrested. There were people who contacted RFA and were arrested. Sometimes when I think about it, I feel heartbroken. And it would not be wrong to say that I regretted it.” He dedicated 21 years to RFA, from 1997 until he retired in 2018. Khanh still contributed to U.S.-based Vietnamese language news channels, including SBTN and Người Việt, following his retirement.
Khanh agreed to lead a transition team for VOICE, an organization focused on empowering Vietnamese youth and civil society, following a dinner in 2017 with its founder, Trịnh Hội. Despite suffering a stroke shortly after taking on this role, he successfully found and mentored young leaders for the organization. “I have one thing to be happy about: when I found the people I believed would work for us, I told them very clearly that I believed you were the people who would run VOICE in the future. And it turned out exactly that way. So I‘m very proud of that. I‘m proud that I quit my job to go help Voice, and even prouder that I chose the right people.”
Khanh envisions a “livable Vietnam” where citizens have the right to speak, and the government respects its citizens’ opinions. He believes that Vietnamese people, given the opportunity, are capable of achieving much more and contributing further to their country. “A livable Vietnam is when Vietnamese people know their role, know their responsibilities, and are allowed to voice their concerns to the government. And a livable Vietnam is when the government, after hearing the concerns of the people, realizes it has a duty to act as the people wish.”
© Všechna práva vycházejí z práv projektu: Memory of Vietnamese Civil Society
Příbeh pamětníka v rámci projektu Memory of Vietnamese Civil Society (Jan Blažek)